Thứ Ba, 29 tháng 4, 2014

Thứ Tư Tuần II Mùa Phục Sinh
Lời Chúa: 
 Ga 3,16-21
16 Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, 17 vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. 18 Ai tin Người Con ấy, thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa 19 và đây là án luận phạt: là sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. 20 Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách, 21 nhưng ai hành động trong sự thật, thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ, là họ đã hành động trong Thiên Chúa.

Sự sáng và bóng tối luôn trái ngược nhau nhưng không thể không có nhau. Nhờ có ánh sáng ta mới phát hiện ra bóng tối. Có sáng thì mới có tối, có ban ngày thì mới có ban đêm.

Con người mà cứ thích sống trong bóng tối, hay thích sống về đêm thì làm sao mà thấy ánh sáng thật của một cuộc sống và những người ấy lại sợ ánh sáng thật, ánh sáng của chân lý và bình an.

"Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách, 21 nhưng ai hành động trong sự thật, thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ, là họ đã hành động trong Thiên Chúa."

Câu chuyện "ánh sáng tâm hồn" sau đây sẽ phần nào nói đến ánh sáng và bóng tối trong lòng ta qua cách ta sống qua việc ta làm.

Có hai người học trò, một giàu, một nghèo, đến xin thầy nhận làm học trò. Thầy ra điều kiện, nếu hoàn thành được một công việc thầy giao, thì thầy sẽ nhận, nếu không thì thôi.


Ông Thầy trao cho mỗi người ba đồng, và dạy rằng: “Thầy sẽ giao cho mỗi người một gian phòng, sau ba ngày, kể từ hôm nay, chúng con hãy mua một thứ gì đó chất đầy gian phòng của mình. Ai trong chúng con chất đầy gian phòng mình bằng thứ gì quý giá nhất, người đó sẽ là môn sinh của thầy”.

Hai cậu học trò nhận tiền và ra về.

Cậu học trò con nhà giàu trên đường về vừa đi vừa lẩm bẩm: Với ba đồng này, mua quà vặt ăn còn chưa đủ nhét kẽ răng, thì có thể mua cái giống gì chất cho đầy gian phòng rộng thênh thang đó chứ ? Ông thầy dở hơi thế nào ấy ! Ba đồng giá đáng bao nhiêu ? Sao thầy lại xem ba đồng lớn thế nhỉ ? Nó như rơm như rác ! – “Rơm rác !”. Ah ! Ta nghĩ ra rồi ! và cậu ta lóe lên trong đầu óc mình một ý nghĩ mà cậu ta cho là một sáng kiến độc đáo: “mua rơm rác” chất vào gian phòng đó ! Và cậu ta làm như thế thật ! Cậu ta tự nhủ : Đó là câu giải đáp hay nhất ! Không thể có câu giải đáp nào hay hơn thế ! Cậu nhanh chóng “giải ra” đề thi của thầy, cậu hài lòng về sự thông minh của mình. Và cậu tiếp tục vui chơi, chờ ngày hẹn đến trình lên thầy đáp án chính xác của mình mà không cần nghĩ ngợi gì thêm nữa.

Còn phần cậu học trò con nhà nghèo về nhà không ngừng suy nghĩ ngày đêm. Cậu luôn tự hỏi không biết Thầy có ý gì khi giao cho mình ba đồng tiền ít ỏi này để làm một việc lớn lao như thế ! Nghĩ mãi mà vẫn không thể tìm ra cách để làm theo ý thầy muốn. Cậu tự trách mình đầu óc sao tối tăm đến thế ! Rồi một ngày trôi qua, hai ngày trôi qua, ngày thứ ba, ngày cuối cùng đến… khi ánh mặt trời sắp tắt, cậu học trò nghèo buồn bả đứng nhìn cảnh vật chìm dần vào bóng tối, cậu nghĩ bụng: thế là mình thua cuộc ! cậu bước vào nhà lòng nặng trĩu một nỗi buồn khó tả. Ngay lúc ấy, mẹ cậu cầm chiếc đèn dầu cũ kỷ từ dưới bếp lên. Cậu mở tròn xoe mắt, la to : “Con biết rồi, thầy ơi ! Con hiểu rồi ! Thầy ơi !”

Rất sớm, trong nắng mai của ngày cuối cùng đến hẹn, cậu học trò giàu đến gặp thầy, mời thầy đi qua gian phòng mà thầy đã giao cho cậu, cậu nói : “Thầy xem, con đã làm xong công việc khó khăn mà thầy đã giao cho”. Ông thầy chậm rải nói : “Con đã làm đúng như lời thầy bảo theo cách hiểu của con”. Ngừng lại một lúc, ông thầy giơ hai tay lên cao và nói tiếp, “nhưng, con xem, gian phòng trở nên tối tăm, không còn sử dụng được vào việc gì nữa, con đã chất đầy được gian phòng, nhưng những thứ con chất vào đó chỉ toàn là rác rưỡi, không có thứ gì quý giá. Con hãy về và cố gắng học điều này: Khi tâm hồn con người chỉ chất đầy những thứ xấu xa như rác rưỡi, thì nó trở nên tăm tối. Một tâm hồn tăm tối không những không giúp ích gì mà còn làm nguy hại cho đời nữa”.

Rất muộn, khi những tia nắng cuối cùng đã tắt lịm ở trời Tây, cậu học trò nghèo mới vội vã đến gian phòng của thầy đã giao, sau khi làm xong công việc của mình, cậu nhanh chóng mời thầy đến đó, cậu nói: “Thưa thầy, con đã dùng tiền của thầy để mua một cái đèn, con đã chất đầy gian phòng này bằng ánh sáng của nó, thầy xem, ánh sáng đã tràn ngập gian phòng, con hy vọng việc làm này sẽ làm vui lòng thầy”. Ông thầy vuốt đầu cậu học trò, thong thả đáp: “Bắt đầu từ đêm nay, con sẽ là môn sinh của thầy. Đây là bài học đầu tiên, con hãy nhớ lấy! Hãy biết chọn lựa những điều tốt đẹp để chất đầy trong tâm hồn mình. Những điều tốt đẹp mà con tích lũy được chính là ánh sáng tâm hồn con đó ! Ánh sáng tâm hồn là điều quý giá nhất ! Vì không ai có thể là một người tốt nếu tâm hồn họ tăm tối !”


Lạy Chúa, xin cho con biết phân biệt đâu là ánh sáng và bóng tối trong tâm hồn con để tâm hồn con luôn cháy sáng ánh sáng Phục sinh của Chúa, muốn vậy chính con cần phải hồi tâm mỗi ngày để con tìm thấy tình yêu Chúa dành cho con và con dành cho Chúa.

Thứ Ba Tuần II Mùa Phục Sinh
Lời Chúa: 
 Ga 3,7b-15
7 Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Thật, Tôi bảo cho ông biết: Ông đừng ngạc nhiên vì nghe Tôi nói rằng: Các ngươi phải tái sinh bởi trời. 8 Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và đi đâu: mọi kẻ sinh bởi Thần Linh cũng vậy".
9 Nicôđêmô hỏi lại rằng: "Việc ấy xảy ra thế nào được?" 10 Chúa Giêsu đáp: "Ông là bậc thầy trong dân Israel mà ông không biết điều ấy sao? 11 Thật, tôi bảo thật cho ông biết: Điều chúng tôi biết thì chúng tôi nói; điều chúng tôi thấy thì chúng tôi minh chứng. Nhưng các ông lại không nhận lời chứng của chúng tôi. 12 Nếu khi Tôi nói về những sự dưới đất mà các ông không tin, khi Tôi nói những sự trên trời, các ông tin thế nào được? 13 Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. 14 Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, 15 để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời".

Để được tái sinh thành con người mới ta cần để Chúa Thánh Thần hướng dẫn đời ta mỗi ngày trong cầu nguyện, trong hành động và ngay cả lời nói.

“Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời.”

Mỗi khi ta buồn hay thất vọng ta hãy nhìn lên Đấng chịu đóng đinh để ta tìm sự bình an và được tái sinh trong đời sống mới.

Lạy Chúa để được sống một cuộc sống mới mỗi ngày con cần khiêm tốn, nhìn nhận nơi bản thân sự yếu đuối, sự tội, những sự còn làm cho tâm hồn con không gần Chúa. Xin Chúa ban ơn tái sinh cho tâm hồn con nhờ Chúa Thánh Thần. Sống trong sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần giúp con hiểu Chúa hơn, sống với ánh sáng Chúa Phục sinh tỏa chiếu trong cuộc đời con.

Thứ Hai, 28 tháng 4, 2014

Thứ Hai Tuần II Mùa Phục Sinh
Lời Chúa: 
 Ga 3,1-8
1 Trong nhóm Pha-ri-sêu, có một người tên là Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh của người Do-thái. 2 Ông đến gặp Đức Giê-su ban đêm. Ông nói với Người : “Thưa Thầy, chúng tôi biết : Thầy là một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến. Quả vậy, chẳng ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy.” 3 Đức Giê-su trả lời : “Thật, tôi bảo thật ông : không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên.” 4 Ông Ni-cô-đê-mô thưa : “Một người đã già rồi, làm sao có thể sinh ra được ? Chẳng lẽ người đó có thể trở vào lòng mẹ lần thứ hai để sinh ra sao ?” 5 Đức Giê-su đáp : “Thật, tôi bảo thật ông : không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí. 6 Cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt ; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí. 7 Ông đừng ngạc nhiên vì tôi đã nói : các ông cần phải được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên. 8 Gió muốn thổi đâu thì thổi ; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy.”

Bước vào tuần thứ hai Phục sinh, Giáo hội mời gọi ta nghe lời Chúa chương 3 theo Thánh Gioan, đây là cuộc đối thoại giữ Đức Giê-su và ông Ni-cô-đê-mô

Trong cuộc đối thoại với ông Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su nói về ơn tái sinh bởi Thánh Thần :Thật, tôi bảo thật ông: « không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên»

Muốn tái sinh một lần nữa thì phải chết đi, nhưng cái chết mà Chúa muốn nói chính là cái chết cho tính xác thịt hằng ngày để tái sinh trong ân sủng của Chúa.

"Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí. Cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí."Trong Đức Giê-su Ki-tô phục sinh và nhờ tác động mạnh mẽ của Chúa Thánh Thần, chúng ta được tái sinh làm con Thiên Chúa và anh chị em của nhau, vượt qua vô hạn tương quan huyết thống.

Lạy Chuá mỗi ngày khi tham dự thánh lễ là con được bước vào đời sống mới trong Chúa. Xin cho con biết ý thức mỗi khi con rước Chúa vào tâm hồn con để Chúa ở trong con và biến đổi con trở nên sống một đời sống mới.

Chủ Nhật, 27 tháng 4, 2014

Chúa Nhật II Phục Sinh - Năm A
Lời Chúa: 
 Ga 20,19-31
19 Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em!" 20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. 21 Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em."  22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. 23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."
24 Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. 25 Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Tô-ma đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin." 26 Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em." 27 Rồi Người bảo ông Tô-ma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." 28 Ông Tô-ma thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!" 29 Đức Giê-su bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!"
30 Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. 31 Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.


Tin mừng của thánh Gioan hôm nay thuật lại hai lần hiện ra của Đức Giêsu với các môn đệ trong phòng cửa đóng kín và lời đầu tiên của Ngài là lời chúc bình an cho các ông. Trong cả hai lần gặp gỡ, Đức Giêsu đã lập lại lời chúc này tới ba lần :"Bình an cho các con". Ngài đã cho các ông xem tay chân và cạnh sườn Ngài, các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa, nhưng lần này vắng mặt Tôma.

Trong các trình thuật mà các tác giả Phúc âm kể lại chuyện Chúa Phục sinh hiện ra với các tông đồ Chúa đều nói: " Bình an cho các con"
- Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo :”Bình an cho các con”(Lc 24,37).

- Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái, Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói:”Bình an cho các con”(Ga 20,19).

- Người lại nói với các ông :”Bình an cho các con ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con”(Ga 20,21).

- Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả Tôm ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói :”Bình an cho các con” (Ga 20,26).

Chúa Giê-su hiểu tâm trạng của các ông, honag mang sợ hãi, các ông đang mất bình an vì Thầy của các ông bị bắt, giết chết và đã đem đi chôn. các ôn mất bình an vị sợ người Do-thái bắt. Khi Chúa hiệu ra thì các ông kinh ngạc và sợ hãi. 

Câu chuyện hôm nay của Thánh Gioan cũng cho ta thấy nỗi sợ hãi của các ông qua việc các ông đóng kín cửa. 

Lần hiện ra thứ nhất thiếu Tô-ma, nên khi ông trở về mới có chuyện thách thức với các tông đồ.

Chúa hiện ra lần hai lúc này có Tô-ma Chúa đưa những dấu vết mà ông cần kiếm chứng đã làm ôn sợ và tuyên xưng niềm tin của mình "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!" và từ đó Chúa lại cho ta một mối phúc "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!"

Khi ta ở trong tâm trạng sợ hãi thì ta mất bình an,mất niềm tin vào chính mình vào cuộc sống. Và khi mất niềm tin ta dễ rơi vào trầm cảm, sống co cụm không lối thoát. 

Cuộc sống quanh ta gần đây đang sống trong tình trạng mất bình an, nội chiến ở Ukraina, vụ máy bay của hãng malaysia mất tích, vụ chìm tàu tại Seoul -Hàn Quốc, rồi trong nước nạn dịch sởi, cướp giật... Và chính ta cũng có những điều lo lắng, băng khoăn nào đó làm ta mất bình an

Chỉ khi ta để tâm hồn cho chính Đấng Phục sinh hiện diện, cho niềm tin của ta được triển nở ta mới đẩy lùi sự sợ hãi vây quanh ta.
Xin Chúa cho con một đức tin kiên vững, cho con được tâm hồn luôn bình an và trên hết mọi sự xin hãy cho con biết đem đến cho mọi người quanh con sự bình an của Chúa qua những hành động cụ thể như cho đi một nụ cười, một ánh mắt yêu thương một cái bắt tay ấm nồng tình mến. và cứ như vậy cuộc sống của con sẽ tràn ngập ánh sáng Phục sinh.
câu chuyện sau đây phần nào cũng cho thấy bình giữ được tâm hồn luôn bình an sẽ làm cho cuộc sống thêm ý nghĩa

Chuyện xưa kể rằng, có một vị vua ngày đêm lo lắng về sự an nguy cho vương quốc của mình, về kho báu và đặc biệt về ngai vàng của mình. Ông không tìm thấy bình an trong cuộc sống; các vị quan trở thành mối nghi ngờ, và tương lai trở thành nỗi ám ảnh sợ hãi cho ông.

Từ chốn cung điện nhìn xuống đám dân nghèo, ông cảm thấy như thèm muốn được như họ, vì ở họ toát lên nỗi đơn sơ, chất phác và không một chút lo lắng cho tương lai. Quá tò mò lối sống của dân nghèo, vị vua quyết định hóa trang thành người ăn mày để tìm hiểu nguyên nhân nào đã làm cho những dân nghèo được bình an như vậy.

Ngày kia, vua giả dạng người ăn mày gõ cửa một người nghèo để xin ăn. Người nghèo mời người ăn mày vào và cùng chia sẻ một ổ bánh mì với thái độ hạnh phúc và yêu đời. Vị vua giả dạng hỏi: "Điều gì đã làm ông hạnh phúc như vậy?". Người nghèo đáp: "Tôi có một ngày rất tốt. Tôi sửa giày và kiếm đủ tiền để mua ổ bánh cho buổi tối nay". Vị vua giả dạng hỏi tiếp: "Chuyện gì sẽ xảy ra, nếu ngày mai ông không kiếm đủ tiền mua bánh mì?". "Tôi có niềm tin vào mỗi ngày. Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp", người thợ đáp.

Sau khi ra về, vị vua muốn thử niềm tin của người thợ giày. Vua ra lệnh cấm những người sửa giày dép hành nghề. Khi biết bộ luật mới ban, người thợ giày nhủ thầm: "Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp". Ngay lập tức ông thấy một vài phụ nữ đang gánh nước ra chợ bán rau, ông xin được gánh nước thuê cho họ. Và hôm đó, ông kiếm đủ tiền để mua bánh mì cho buổi tối.

Trời tối, vị vua dưới dạng người ăn mày lại tới thăm người nghèo. Người thợ sửa giày vẫn giữ thái độ ung dung, hạnh phúc với ổ bánh mì của mình. Hôm sau, vua cho ra lệnh cấm không cho phép hành nghề gánh nước thuê. Và cứ như thế, người nghèo đã thay đổi nhiều nghề khác nhau, nhưng nơi ông vẫn luôn có sự bình an và tin tưởng vào triết lý sống từng ngày của mình. Còn vị vua vẫn không thể nào hiểu nổi sự bình an và niềm tin của người nghèo kia. Mỗi lần bị cấm hành nghề, người nghèo vẫn thản nhiên tin rằng, "Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp".

Vì quá tò mò trước triết lý sống của người nghèo này, đức vua ra lệnh và dàn xếp để người nghèo làm lính cho cung điện. Thật đáng thương, người nghèo không được phát lương hằng ngày, mà phải hết tháng ông mới nhận được thù lao. Mặc dù vậy, ông đã bán lưỡi gươm và có đủ tiền để mua bánh mì cho một tháng. Tối đến, ông vẫn có bánh mì và vẫn hạnh phúc.

Vị vua giả dạng tới thăm ông và hỏi, "Hôm nay ông làm nghề gì mà kiếm tiến mua bánh mì?". "Tôi được làm lính cho vua", người nghèo đáp. Ông cũng đơn sơ kể rằng: "Làm lính nhưng nhận lương vào cuối tháng, nên tôi đã bán lưỡi gươm thật và đủ tiền để mua bánh mì cho một tháng. Sau khi có lương, tôi sẽ chuộc lại lưỡi gươm thật và như thế tôi sẽ có cuộc sống tốt hơn. Hiện nay tôi đang dùng lưỡi gươm bằng gỗ." Nhà vua giả dạng hỏi tiếp, "Nhưng nếu ông phải sử dụng tới gươm vào ngày mai thì sao?". Người thợ sửa giày đợt trước vần thản nhiên: "Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp".

Quả thật, hôm sau người ta bắt được một tên trộm và bị kết án xử chém. Vua yêu cầu người nghèo trong trang phục lính thực hiện việc này. Vì nhà vua biết rằng, với lưỡi kiếm gỗ, người đàn ông này sẽ không thể thực hiện được nhiệm vụ. Và như vậy để xem niềm tin vào triết lý sống từng ngày của ông có thể giúp được hay không?

Tên tử tội quỳ xuống chân anh lính và van xin được tha mạng vì còn vợ và con nhỏ. Người đàn ông nhà nghèo trong trang phục lính nhìn đám đông xung quanh và hô lớn: "Lạy Đấng tối cao, nếu người sắp bị hành quyết này là người có tội, thì xin cho con được phép thi hành lệnh của vua. Còn nếu anh ta vô tội, xin hãy biến lưỡi gươm này thành gươm gỗ". Ngay tức khắc, ông rút lưỡi gươm ra và quả thực thanh gươm bằng sắt đã biến thành gươm gỗ. Đám đông đồng thanh la lên: "Đây là phép lạ". Vị vua truyền lệnh tha tên ăn trộm đồng thời tiến đến người lính nghèo thú nhận rằng: "Trẫm chính là người ăn mày mỗi tối tại nhà ngươi. Từ nay trở đi, trẫm muốn ngươi là bạn và là quân sư cho trẫm. Ngươi hãy dạy cho ta cách sống lạc quan và bình an".

Thứ Sáu, 25 tháng 4, 2014

Thứ Bảy Tuần Bát Nhật Mùa Phục Sinh
Lời Chúa: 
 Mc 16,9-15
9 Khi Chúa Giêsu sống lại, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, thì trước hết Người hiện ra với Maria Mađalêna, kẻ đã được Chúa đuổi bảy quỷ. 10 Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng ở với Người  và nay đang buồn thảm khóc lóc. 11 Họ nghe bà nói Chúa sống lại và bà đã thấy Người, nhưng họ không tin. 12 Sau đó, Chúa lại hiện ra dưới hình thức khác với hai môn đệ đang trên đường về miền quê. 13 Hai ông trở về báo tin cho anh em, nhưng họ cũng không tin các ông ấy. 14 Sau hết, Chúa hiện ra với mười một tông đồ lúc đang ngồi ăn. Chúa khiển trách các ông đã cứng lòng, vì các ông không tin những kẻ đã thấy Người sống lại. 15 Rồi Người phán: "Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho muôn loài".

Theo các nhà chú giải Thánh Kinh phần cuối của Phúc Âm Máccô không do Máccô viết, mà do một ai đó viết thêm vào, ghi tóm lược 3 cuộc hiện ra chính của Chúa Giêsu sau khi sống lại:

- Hiện ra cho Maria Mađalêna.
- Hiện ra cho hai môn đệ Emmaus.
- Hiện ra cho mười một tông đồ

Thái độ của các tông đồ là không tin lời loan báo tin Chúa sống lại của bà Maria Madalenna. RỒi câu chuyện kể lại Chúa đã sống lại của hai môn đện trên đường Emmau cũng không làm cho các ông tin. Chúa đã hiện ra và khiển trách sự cứng lòng tin của các ông. Sau đó Ngài đã sai các ông đi. "Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho muôn loài".

Lạy Chúa, sống niềm tin Chúa chết và Phục sinh không phải dễ, và trong đời sống con cũng vậy, khó chấp nhận những gì mà không theo ý con hay khó lý giải được. Xin Chúa ban ơn cho con đển con luôn tin Chúa đang hiện và đồng hành với con trong cuộc sống.
Thứ Sáu Tuần Bát Nhật Mùa Phục Sinh
Lời Chúa: 
 Ga 21,1-14
1 Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: 2 Simon Phêrô, Tôma cũng gọi là Điđymô, Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ nữa đang ở với nhau. 3 Simon Phêrô bảo: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông kia nói rằng: "Chúng tôi cùng đi với ông". Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào. 4 Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. 5 Người liền hỏi: "Này các con, có gì ăn không?" Họ đồng thanh đáp: "Thưa không". 6 Chúa Giêsu bảo: "Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được". Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. 7 Người môn đệ Chúa Giêsu yêu, liền nói với Phêrô: "Chính Chúa đó". Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. 8 Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay.
9 Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. 10 Chúa Giêsu bảo: "Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây". 11 Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách.
12 Chúa Giêsu bảo rằng: "Các con hãy lại ăn". Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi: "Ông là ai?" Vì mọi người đã biết là Chúa. 13 Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế. 14 Đây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại.


Các tông đồ rủ nhau đi đánh cá, có nghĩa là các ông trở về với cuộc sống bình thường, trở về với những gì trước khi theo Chúa Giêsu.

Những mẻ lưới của các ông tối nay chẳng có gì, mết nhọc và thất vọng. Chính lúc đó Chúa lại hiện ra với câu hỏi rất đời thường: "Này các con, có gì ăn không?". các ông trả lời "Thưa không". Chúa lại chỉ cho các ông "Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được". Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá." các ông vâng lời và kết quả là một mẻ cá đầy, một mẻ cá rất lạ. Và chính giờ đó Gioan đã nhân ra người ra lệnh đó là Chúa.

Chúa rất là tâm lý và đầy tình người Cha qua việc Chúa đã chuẩn bị bánh và cá cho các ông, nhưng Chúa lại muốn chính các ông đóng góp phần của mình vào bữa ăn tối nay.

"các con hãy lại ăn" một lời mời thật là âm tình và đầy tình thầy trò.

Phải chăng đây là tiếng gọi thứ hai của Chúa mời gọi các ông đi theo Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con luôn khám phá ra những tiếng gọi thân yêu mà Chúa vẫn hằng gọi mời con. Dẫu có những tiếng gọi không phài dễ nghe nhưng xin cho con biết vâng lời, vâng lời như các tông đồ. Từ sự vâng phục đó thì những phép lạ Chúa vẫn xảy ra cho chính cuộc đời con.

Thứ Năm, 24 tháng 4, 2014

Thứ Năm Tuần Bát Nhật Mùa Phục Sinh
Lời Chúa: 
 Lc 24,35-48
5 Khi ấy, hai môn đệ thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào. 36 Mọi người còn đứng bàn chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: "Bình an cho các con! Này Thầy đây, đừng sợ". 37 Nhưng mọi người bối rối tưởng mình thấy ma. 38 Chúa lại phán: "Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy? 39 Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây". 40 Nói xong, Người đưa tay chân cho họ xem. 41 Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi: "Ở đây các con có gì ăn không?" 42 Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong. 43 Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ. 44 Đoạn Người phán: "Đúng như lời Thầy đã nói với các con khi Thầy còn ở với các con, là: cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh". 45 Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh.
46 Người lại nói: "Có lời chép rằng: Đấng Kitô sẽ phải chịu thương khó và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. 47 Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. 48 Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy".
Nỗi sợ hãi thường làm cho ta không con nhận ra ánh sáng nữa, xung quanh ta chỉ là  bóng đêm. Sợ ! và chỉ có sợ hãi mà thôi.

Các tông đồ cũng trong tâm trạng như vậy, cửa đóng kím mà Chúa xuất hiện, làm sao mà các ông tin được.
Chúa phải trấn an các ông: "Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy?  Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây". 4 Nói xong, Người đưa tay chân cho họ xem.  Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi: "Ở đây các con có gì ăn không?"  Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong.  Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ."
Lạy Chúa trong đời sống hằng ngày con cũng có những lúc như các tông đồ, lo âu, sợ hãi đủ thứ chuyện. Xin cho con biết khám phá Chúa đang ở với con, và Chúa sẽ xua tan bóng đêm của tội lỗi, bóng tối và những u ám trogn cuộc sống của con

Thứ Tư, 23 tháng 4, 2014

Thứ Tư Tuần Bát Nhật Mùa Phục Sinh
Lời Chúa: 
 Lc 24,13-35
13 Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. 14 Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra. 15 Đang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, 16 nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người. 17 Người hỏi: "Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?" 18 Một người tên là Clêophas trả lời: "Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay". 19 Chúa hỏi: "Việc gì thế?" Các ông thưa: "Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. 20 Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. 21 Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. 22 Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. 23 Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. 24 Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp".
25 Bấy giờ Người bảo họ: "Ôi kẻ khờ dại, chậm tin các điều tiên tri đã nói! 26Chớ thì Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?" 27 Đoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người. 28 Khi gần đến làng hai ông định tới, Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa. 29 Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn". Người liền vào với các ông.
30 Đang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. 31 Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Đoạn Người biến mất. 32 Họ bảo nhau: "Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?" 33 Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. 34 Các vị đó bảo hai ông: "Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon". 35 Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.

Hai môn đệ đi Emmau đã tin tưởng Đức Giêsu Nadarét. Người đã khơi dậy trong họ niềm cậy trông. Thế nhưng, sau khi Đức Giêsu chết rồi, tất cả trở nên đen tối, thật sự là hết, chẳng còn gì. Giêsu chỉ còn như một giấc mộng đẹp. Trên đường về Emmau, chỉ toàn là đêm đen.

Nhưng Chúa Giêsu cùng đi trên đường với họ. Khi Người giải thích cho họ những lời Kinh Thánh liên quan đến Người, Người chiếu một tia sáng trên chính cuộc sống của họ. Người giúp họ hiểu được ý nghĩa sâu xa của điều họ đang sống.

Nếu Chúa Giêsu soi dẫn cuộc sống chúng ta, chính là vì đã có một sự đồng cảm nào đó giữa Người với chúng ta, và nhất là đã có một khám phá thực sự mới mẻ về Chúa Kitô trong cuộc đời chúng ta.

Gặp gỡ Đấng Phục Sinh sẽ làm cho lòng tin của chúng ta lớn lên. Qua việc học hỏi, lắng nghe lời Kinh Thánh, chúng ta sẽ dần dần nhận ra Ngài là ai đối với cuộc đời mình.Nhận ra Chúa Kitô Phục Sinh, khám phá ra sự hiện diện của Người, luôn là một thách đố mỗi ngày. Nhận ra Đấng Phục Sinh, đó chính là một tác động khó khăn của đức tin. Sự nhận biết này luôn cần được sống và canh tân mỗi ngày, vì chúng ta là những lữ khách, những khách hành hương về Emmau cùng với Đức Kitô vào buổi chiều ngày Phục Sinh, trên con đường dài của cuộc đời

Hình ảnh những người trên đường Emmaus hôm nay là những người bị phân tán, sầu buồn, chán nản, lo âu. Họ nghi nan, mất niềm tin. Họ bỏ cuộc, trở về nhà mình. Lý do quy tụ, hợp nhất họ lại không còn nữa. Họ sợ hãi và lẩn trốn.

Chúa Kitô đến đồng hành với họ. Nhưng có cái gì đó ngăn cản, họ chưa nhận ra Người. Có một bức màn che giữa họ và Người, có một bức màn che giữa chúng ta và Chúa Kitô. Chúa Kitô đã trải qua sự chết. Chúng ta không nhìn thấy Người, nhưng Người vẫn ở đó và cùng đi với chúng ta..


Đấng Phục Sinh đã phải đi một đoạn đường xa, để đồng hành và kiên nhẫn giảng giải. Và cuối cùng thì hai môn đệ đã nhận ra Ngài, khi Ngài bẻ bánh. Bấy giờ trái tim họ vỡ lở niềm vui Tạ Ơn, niềm vui Thánh Thể. Giờ đây Chúa Giêsu có hai môn đệ mới, bởi lẽ hai ông đã lập tức quay gót trở về lại với cộng đoàn các tông đồ, với Tin Mừng trong tâm hồn. Các ông lên đường, trở về Giêrusalem, sẵn sàng loan báo điều đã xảy đến với mình.

Sau cái chết của Đức Giêsu, các tông đồ, môn đệ Đức Giêsu đã bị phân tán, nhưng nay họ quy tụ lại. Họ đã tưởng rằng không còn gì để nói với nhau nữa ngoại trừ nỗi buồn chán. Nhưng bây giờ họ có một Phúc Âm để trao đổi với nhau. Sự hiện diện của Đấng Phục Sinh đã tái sinh họ thành nhóm, thành Giáo Hội. Giờ đây họ sẵn sàng ra đi trên khắp các nẻo đường thế giới, để rao giảng cho các anh chị em của họ biết rằng, lịch sử đã đổi chiều và niềm vui mạnh hơn sự chết là điều có thể...

Lạy Chúa, xin cho con luôn nhận thấy Chúa đồng hành với con trong cuộc sống, trong chính những lúc con thấy buồn sầu, chán nản. Chúa vẫn đồng hành với con. và khi gặp được Chúa xin biết ra đi loan báo niềm vui Chúa đã sống lại.

Thứ Hai, 21 tháng 4, 2014

Thứ Ba Tuần Bát Nhật Mùa Phục Sinh
Lời Chúa: 
 Ga 20,11-18
11 Khi ấy, bà Maria đang còn đứng gần mồ Chúa mà than khóc. Nhìn vào trong mồ, 12 bà thấy hai thiên thần mặc áo trắng đang ngồi nơi đã đặt xác Chúa Giêsu, một vị ngồi phía đàng đầu, một vị ngồi phía đàng chân. 13 Hai vị hỏi: "Tại sao bà khóc?" Bà trả lời: "Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi và tôi không biết người ta đã để Người ở đâu?" 14 Vừa nói xong, bà quay mặt lại, thì thấy Chúa Giêsu đã đứng đó, nhưng bà chưa biết là Chúa Giêsu. 15 Chúa Giêsu hỏi: "Bà kia, sao mà khóc, bà tìm ai?"
Tưởng là người giữ vườn, Maria thưa: "Thưa ông, nếu ông đã mang xác Người đi, thì xin cho tôi biết ông đã đặt Người ở đâu, để tôi đến lấy xác Người". 16 Chúa Giêsu gọi: "Maria". Quay mặt lại, bà thưa Người: "Rabboni!" (nghĩa là "Lạy Thầy!"). 17 Chúa Giêsu bảo bà: "Đừng động đến Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta. Nhưng hãy đi báo tin cho các anh em Ta hay và bảo họ rằng: Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha các con; về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con".
18 Maria Mađalêna đi báo tin cho các môn đệ rằng: "Tôi đã trông thấy Chúa và Chúa đã phán với tôi những điều ấy"

Bà Maria khóc vì nhìn vào mồ thấy xác Chúa mất, bà khóc vì thất vọng, vì buồn, sợ. Nỗi thất vọng, buốn sầu làm bà không nhận ra người trước mặt bà là chính Chúa. Đó cũng là tâm trang của ta, mỗi khi ta thất vọng, chán chường, dường như ta thấy điều gì quanh ta cũng là bóng tối, mùa mờ và cùng đường. Có những người thất vọng đến nỗi họ phải tìm đến cái chết.

Nhưng khi Chúa gọi "Maria" làm bà bừng tỉnh. có lẽ tiếng gọi của Chúa trước đây vẫn vang vọng trong cuộc đời bà, mời gọi bà hoán cải, mời gọi bà đi vào con đường sáng của tình yêu tha thứ. Và hôm nay tiếng gọi đó là cho bà nhận ra ánh sáng Phục sinh. Thầy của bà đã sống lại.

Tiếng gọi phải có lời đáp, lời đáp của bà là chạy đi loan báo tin mừng Phục sinh cho các môn đệ Chúa: "Tôi đã trông thấy Chúa và Chúa đã phán với tôi những điều ấy". Vâng, khi suy gẫm bài Tin mừng Phục sinh , con xin Chúa cho con cũng được ơn nghe tiếng Chúa gọi mỗi khi con chán nản, thất vọng hay đau khổ. Con tin Chúa vẫn đứng đó nhìn con, gọi con và mong con lên đường trong niềm vui hân hoan. Chúa đã sống lại.
Thứ Hai Tuần Bát Nhật Mùa Phục Sinh
Lời Chúa: 
 Mt 28,8-15
8 Khi ấy, các bà vội ra khỏi mồ vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Chúa. 9 Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: "Chào các bà". Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy. 10 Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: "Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó họ sẽ gặp Ta".
11 Đang khi các bà lên đường, thì mấy người lính canh vào thành báo tin cho các thượng tế biết tất cả những gì đã xảy ra. 12 Các thượng tế liền họp với các kỳ lão, và sau khi đã bàn định, họ cho lính một số tiền lớn 13 và bảo rằng: "Các anh hãy nói rằng: Ban đêm khi chúng tôi đang ngủ, thì môn đệ ông đến lấy trộm xác ông. 14 Nếu việc này đến tai tổng trấn, chúng tôi sẽ thương lượng với ông, không để các anh phải phiền hà đâu". 15 Bọn lính canh nhận tiền và đã làm y như họ căn dặn chúng. Bởi thế, lời đó được phao truyền nơi người Do-thái cho đến ngày nay.

Các phụ nữ sợ mà lại vui, niềm vui của các bà thể hiện bắng hành động : chạy nhanh đi báo cho các tông đồ. và ngay trên đường đi các bà đã gặp Đấng Phục sinh với lời trấn an của Chúa: các bà đừng sợ
Còn các người lính, các thượng tế kinh sư trước biến cố mồ trống mà họ không lý giải được, họ sợ và nỗi sợ của họ dẫn họ đến sự gian dối, bóng đen vẫn bao trùm họ. Tiền đã làm cho những linh canh mồ không còn sống cho sự thật, danh lợi đã bóp nghẹt sự thật.
Lạy Chúa, với những bài phúc âm viết về biết cố Chúa Phục sinh cho con niềm xác tin vào niềm tin của mình. Chúa đã phục sinh, Chúa chiến thắng sự chết. Xin cho mỗi ngày con dám chết đi với những ý riêng của con, những bóng đem còn đang vây quanh con. dám thắng chính mình để chạy đi và la to rắng : Chúa đã Phục sinh.

Chủ Nhật, 20 tháng 4, 2014

Vọng Phục Sinh

Mt 28,1-10
Người đã trỗi dậy và đi Ga-li-lê trước các ông.

 Chiều ngày sa-bát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a, đi viếng mộ. Thình lình, đất rung chuyển dữ dội : thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên ;  diện mạo người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết.  Thấy người, lính canh khiếp sợ, run rẩy chết ngất đi.  Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ : “Này các bà, các bà đừng sợ ! Tôi biết các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh.  Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm, rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này : Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin nói cho các bà hay.”  Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giê-su hay.
 Bỗng Đức Giê-su đón gặp các bà và nói : “Chào chị em !” Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người.  Bấy giờ, Đức Giê-su nói với các bà : “Chị em đừng sợ ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó.”




Đừng sợ, là câu trấn an của thiên thần và cũng là của Chúa Giê-su dành cho các bà, những con người rất can đảm và thể hiện một tình yêu rất đơn sơ chân thành dành cho Chúa Giê-su

Các bà không đi một mình, các bà rủ nhau đi, đó cũng là đặc tính của phái nữ là sợ, hơn nữa trời lúc này mới lọ rạng, sau ngày thật là khủng khiếp, người ta giết Chúa rồi, Chúa chết rồi. Các bà đi viếng mộ đó là hình ảnh mà ta vẫn thương thấy trong gia đình khi có người thân qua đời thì những người phụ nữ trong gia đình thường hay ra mộ để khóc thương, chăm sóc cho người quá cố. Vâng các cũng vậy, ra đi với tâm trang buồn. bất ngờ “Thình lình, đất rung chuyển dữ dội : thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên ; diện mạo người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết. Thấy người, lính canh khiếp sợ, run rẩy chết ngất đi” (2-4). Quá sợ trước hiện tượng trước mặt.

Nhưng ngay sau đó Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ : “Này các bà, các bà đừng sợ ! Tôi biết các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm, rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này : Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin nói cho các bà hay.” (5-7) Lời trấn an của Thiên thần và sứ mạng các Thiên thần trao cho các bà là đi báo cho các tong đồ, những con người đang trong phòng kín vì sợ người Do-thái, những con người không còn tin vào Thầy mình nữa.

Chúa Phục sinh hẹn các ông tại Ga-li-lê. Ga-li-lê với biển hồ Ti-bê-ri-a nơi mà Chúa đã gọi các ông đi theo Chúa. Địa điểm của cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa các ông với Chúa Giê-su. Sauk hi Chúa chỗi dậy từ cõi chết, Chúa muốn gặp các ông ở nơi mà ghi lại dấu ấn tiếng gọi đầu tiên, nơi mà các ông bỏ lưới, bỏ cha mẹ để theo Chúa, mốt cách nào đó Chúa muốn nói đến sự tha thứ cho các ông, Chúa muốn quy tụ các ông lại và mời gọi các ông bắt đầu lại .

“Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó” lời mời gọi của Chúa vẫn còn đó với chính mỗi người chúng ta hôm nay. Ga-li-lê của bạn và tôi hôm nay chính là ngày ta được mời gọi làm con Chúa, ngày ta giao ước với Chúa, và là nơi Thánh Lễ mỗi ngày, Chúa Phục sinh đang chờ tôi và bạn. Hãy trở về để được phục sinh với Chúa.

Lạy Chúa, tin mừng Phục sinh là niềm tin cho mỗi Ki-tô hữu, người theo Chúa, Xin cho con biết trở về với con, với Thánh lễ đễ con gặp được Chúa . Alleluia.

Thứ Sáu, 18 tháng 4, 2014


Thứ bảy Tuần Thánh giáo hội mời gọi chúng ta sống biến cố Chúa chết và sống tấm tình bên mồ Chúa.
Tôi có thời gian thinh lặng, dẹp bỏ mọi công việc để dành ngày sống hôm nay cho cầu nguyện, chiêm niệm. con đường Chúa đi.
Càng suy gẫm tôi càng khám phá tình yêu quá cao vời mà Chúa dành cho tôi và nhân loại. Hôm nay tôi suy gẫm 7 lời nói cuối cùng của Chúa Giê-su trước khi Chúa trút hơi thở cuối cùng

1. Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng đang làm (Lc 23,34)

2. Quả thật, Ta bảo với anh: Hôm nay anh sẽ được ở với Ta trong thiên đàng (Lc 23,43)

3. Thưa Bà, đó là con Bà - Đó là Mẹ của con (Ga 19,26-27)

4. Lạy Thiên Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi, sao Người đã bỏ con? (Mt 27,46; Mc 15,34)

5. Ta khát (Ga 19,28)

6. Mọi sự đã được hoàn tất (Ga 19,30)

7. Cha ơi, Con phó tâm hồn của con trong tay Cha (Lc 23,46)

Đây là bảy lời thật là tuyệt vời, bảy lời của Chúa như một bản di chúc Thánh

Trong 7 lời này, thì 3 lời đầu tiên:

1. Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng đang làm (Lc 23,34)

2. Quả thật, Ta bảo với anh: Hôm nay anh sẽ được ở với Ta trong thiên đàng (Lc 23,43)

3. Thưa Bà, đó là con Bà - Đó là Mẹ của con (Ga 19,26-27)

cho thấy những công trình cuộc đời tuôn trào một cách nào đó từ cái chết của Đấng Cứu Độ. Đó là những biểu hiện sinh lợi của ân sủng. Sự tha thứ các xúc phạm, việc được vào thiên đàng, những mối liên hệ nối kết các tâm hồn xuất hiện với chúng ta như là 3 công trình siêu vời của Kitô giáo.

Trong 7 lời này, thì 4 lời cuối cùng:

4. Lạy Thiên Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi, sao Người đã bỏ con? (Mt 27,46; Mc 15,34)

5. Ta khát (Ga 19,28)

6. Mọi sự đã được hoàn tất (Ga 19,30)

7. Cha ơi, Con phó tâm hồn của con trong tay Cha (Lc 23,46)

mô tả bản chất và những đặc tính của đời sống Kitô hữu.

Đau khổ - tuyệt đối trong trường hợp của Chúa Giêsu bị Thiên Chúa bỏ rơi trong 3 giờ hấp hối - cơn khát, công việc hoàn tất, sự lệ thuộc với Chúa Cha trên trời cho đến giờ cuối cùng trên thế gian làm thành một nguồn mạch các công trình đời sống.
Những lời liên quan đến sự sống đi trước những lời liệt kê những đặc tính của đời sống Kitô hữu.

Trong bảy Lời của Chúa, tôi suy gẫm về ba lời:
 Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng đang làm (Lc 23,34)
Quả thật, Ta bảo với anh: Hôm nay anh sẽ được ở với Ta trong thiên đàng (Lc 23,43)
Cha ơi, Con phó tâm hồn của con trong tay Cha (Lc 23,46)


Hành trình Thập giá quá đau khổ và ê chề, quá tủi nhục và bi đát, tất cả những gì tàn bạo , ác độc nhất con người đã dành cho Chúa, một người mà chính Phi-la-tô tìm hoài không thấy tội gì để kết án. Vậy mà trên Thánh giá Chúa không oán trách họ Chúa đã xin Cha "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng đang làm".
Tôi nhìn lại mình, nhìn lại nhân loại hôm nay, Chúa vẫn xin cho mỗi ngày cho tôi, cho bạn cho mọi người, Chúa vẫn bênh vực chúng ta trước mặt Cha của Ngài. Con cám ơn tình yêu bao dung của Chúa, để con cũng biết nói lời tha thứ yêu thương đối với anh chị em con, để con tin tưởng và ơn tha thứ của Chúa mà chỗi dậy, mà cố gắng hơn, cố gắng mỗi ngày bớt đi những cây đinh con đóng vào Chúa, qua những hành động thiếu bác ái, sống vô trách nhiệm, sợ mất ghế, mất chức mất địa vị mà làm ngược lại với tiếng lương tâm. Chúa ơi xin Chúa nói với Chúa Cha cho con: "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng đang làm". để con được gặp Chúa mỗi ngày.

"Quả thật, Ta bảo với anh: Hôm nay anh sẽ được ở với Ta trong thiên đàng" (Lc 23,43) Một hy vọng cho những tâm hồn biết ăn năn trở về với Chúa, với gia đình với cộng đoàn. Không ai dám nói mình hoàn thiện ngay ở đời này, không lỗi to thì cũng có lỗi nhỏ, chỉ tôi và bạn chúng ta biết xin Chúa như người trộm lành "Ông Giêsu ơi, khi nào ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi” (Lc 23,42). Anh đã không dừng lại dáng vẻ bên ngoài, Anh nhìn với cặp mắt đức tin, và đã nhận biết vương quyền của Chúa Giêsu. Anh thừa nhận, Anh công bố điều làm thánh Gioan Kim Khẩu ngạc nhiên thốt lên :
“Chuyện lạ lùng chưa từng có ! Thập giá đang sừng sững trước mặt ngươi mà ngươi lại nói đến vương quyền. Ngươi thấy gì mà ngươi liên tưởng đến vinh quang ? Mầu nhiệm con người bị đóng đinh bầm dập, bị chửi rủa, bị dồn dập lên án, bị phỉ nhổ, đòn vọt. Có phải bởi những dấu ấy mà ngươi nhân ra Ngài là vua chăng ?”
Xin cho đức tin của con luôn nhận ra Chúa đang đứng đó, đợi con, đang bên cạnh con, sẵn sàng tha thứ cho con. Lạy Chúa xin cho những người tôi lỗi được trở về với Chúa.

Cha ơi, Con phó tâm hồn của con trong tay Cha (Lc 23,46)
Cuối đời của tôi và bạn, chúng ta ước ao được phó thác linh hồn con trong tay Chúa. Muốn vậy mỗi ngày, mỗi ngày ta phải tự phó thác linh hồn ta cho Chúa, ta phải xác tín điều này, vì nếu không cuộc đời ta lại phó thác cho sa tan cho thế lực của tội lỗi của thế gian qua những việc ta làm, lời ta nói suy nghĩ của ta...

Lạy Chúa ba lời nói của tình yêu mà Chúa danh cho con, cho cả nhận loại để cho con thêm xác tin hơn về con đường Chúa đã đi, và con cũng phải đi con đường đó, con mới có thể đến gặp Chúa trong vinh quang, nhưng để được như vậy mỗi ngày con cẫn soi mình vào Lời Chúa và Thánh Thể để con không lạc xa Chúa, để như Gioan, Đức Mẹ hay các phụ nữ, con vẫn dõi bưới theo Chúa đến cũng. Ta ơn Chúa cho con có được một ngày sẽ sống bên mộ Chúa.
Xin cho các tội nhân được ơn trở về với Chúa, cho các dự tòng chuẩn bị tâm hồn đón nhận Chúa vào cuộ đời của họ.


Suy niệm cuộc thương khó của Chúa Giê-su trong ngày thứ Sáu Tuần Thánh, tôi đọc lại bài huấn dụ của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô sáng Thứ Tư Tuần Thánh 16-4-2014 khi ngài tiếp kiến chung những người hành hương tại quảng trường Rô-ma, trong đó tôi suy nghĩ nhiều về mầu nhiệm của sự dữ mà Đức Thánh Cha gợi lên:

Một khi đã bước đi trên con đường của sự hạ mình và lột bỏ, Chúa Giêsu đi đến cùng. Chúa Giêsu đạt tới sự khiêm hạ hoàn toàn với ”cái chết trên thập giá”. Đây là cái chết tệ hại nhất dành cho các nô lệ và các tội phạm. Chúa Giêsu đã được coi như một ngôn sứ, nhưng chết như một kẻ tội phạm. Khi nhìn Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn của Người, chúng ta thấy như trong một tấm gương các nỗi khổ đau của nhân loại và tìm thấy câu trả lời thiên linh cho mầu nhiệm của sự dữ, khổ đau, và cái chết.

Biết bao lần chúng ta cảm thấy kinh hoàng đối với sự dữ và khổ đau bao quanh chúng ta và chúng ta tự hỏi: ”Tại sao Thiên Chúa lại cho phép điều đó xảy ra?”. Đây là một vết thương sâu đậm đối với chúng ta, khi thấy nỗi khổ đau và cái chết, đặc biệt là cái chết của những người vô tội. Khi chúng ta thấy các trẻ em đau khổ, nó là một vết thương trong tim. Nó là một mầu nhiệm. Và Đức Giêsu nhận lấy tất cả sự dữ ấy, tất cả nỗi khổ đau này trên mình. Trong tuần này thật là điều tốt cho tất cả chúng ta nhìn vào Chúa bị đóng đanh, hôn các vết thương của Chúa Giêsu, hôn chúng nơi Chúa bị đóng đanh. Người đã nhận và mang lấy tất cả nỗi khổ đau của con người.

Chúng ta chờ đợi Thiên Chúa đánh bại bất công, sự dữ, tội lỗi và khổ đau trong tự toàn quyền của Người và với một chiến thắng vẻ vang. Trái lại Thiên Chúa cho chúng ta thấy một chiến thắng khiêm tốn, xem ra là một thất bại trong tâm thức của loài người. Và chúng ta có thể nói rằng: Thiên Chúa chiến thắng trong thất bại.

Thật thế, trên thập giá Con Thiên Chúa xem ra là một người thất bại: đau khổ, bị phản bội, bị khinh miệt và sau cùng chết đi. Nhưng Đức Giêsu cho phép sự dữ bám riết lấy Người và mang lấy nó trên mình để chiến thắng nó. Cuộc khổ nạn của Người không phải là một tai nạn; cái chết của Người, cái chết ấy đã được ”ghi chép”. Đây là một mầu nhiệm gây lạc hướng, mầu nhiệm sự khiêm hạ lớn lao của Thiên Chúa, nhưng chúng ta biết bí mật của mầu nhiệm này, của sự khiêm hạ ngoại thường này: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến độ trao ban Con Một mình cho thế gian” (Ga 3,16). Trong tuần này chúng ta nghĩ biết bao tới nỗi khổ đau của Chúa Giêsu và chúng ta tự nhủ: “Đó là để cho tôi. Cả khi tôi có là người duy nhất trên trần gian này, Người cũng làm điều đó. Người đã làm điều đó cho tôi. Và chúng ta hãy hôn Đấng bị đóng đanh và nói: “Cho con. Cám ơn Chúa Giêsu. Cho con.”
 ....   
(Hãy hôn kính các vết thương cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu và cảm tạ Người http://vietvatican.org/)

Lạy Chúa, con cám ơn Chúa đã cho con hiểu con đường của Chúa đi là con đường của tình yêu, Thập giá Chúa vác là Thánh giá Cứu độ. Chúa chết Chúa Phục sinh để cho con được vào hưởng vinh quang nước Chúa trong ngày sau hết của đời con.
Những đau khổ mà con người hôm nay đang đối diện thật kinh khủng, trước  Tam Nhật Thánh với một tai nạn thảm khốc khi một chiếc xe khách tông vào xe bồn trên đường cao tốc Trung Lương vào ngày 16/4/2014 là 7 người chết thảm thương. Và bao nhiêu là nỗi đau khác tiếp tục mà con người đón nhận trong những ngày qua như 111 ca bệnh sởi bịnh tử vong mà đa số là các trẻ em. Và tiếp tục với tai nạn chìm tàu ở Hàn Quốc , trên tàu có 477 người, trong đó có 325 học sinh và giáo viên của Trường trung học Danwon  ở Seoul.
Vâng con sống tên đời là con những con đường của đau khổ, nhưng rồi ta thấy, đau khổ hầu như là do con người tạo cho nhau: bất cẩn, thiếu trách nhiệm, ích kỷ, vô cảm …
Để đời bớt khổ, bớt đau mỗi ngày con nhìn lên Thập giá của Chúa để con học bài học yêu thương, bài học của sự thật sẽ giải phóng con và mọi người.

Lạy Chúa xin cứu lấy con và cứu lấy cả thế giới này.

Thứ Năm, 17 tháng 4, 2014


1. Người trộm lành

Cuộc trao đổi giữa người này với Chúa chỉ vỏn vẹn 2 câu, mỗi người một câu

Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu : “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Và Người nói với anh ta : “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. (Lc 23, 39-43) 


Chắc chắn là anh không biết người anh đang nói là Đấng Ki-tô, anh cũng chẳng quen biết gì Chúa Giê-su trước đó, vì anh mãi mê với cung đường đen tối với những phi vụ béo bở bằng chứng là anh đang bị người ta xử án treo anh lên đó sao.

Cuộc đời của anh đã bị người thời anh kết án tử, coi như không còn đáng để sống và không có quyền để được sống. Nhưng“Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Đây là câu nói bộc lộ niềm tin tuyết đối vào Chúa Giê-su của anh, giây phút cuối cùng của đời anh đã được ánh sáng cứu độ của Đức Giê-su đã cứu anh. Ánh sáng cuối cùng đã lóe lên cuối đường đời anh bắt đầu kết thúc.

Lạy Chúa xin cho con mỗi ngày biết ăn năn trở về với Chúa, và ước gì kết thúc cuộc đời con con cũng được Chúa nói: “Ta bảo thật con, hôm nay, con sẽ được ở với Ta trên Thiên Đàng”

2. Những người phụ nữ thành Giê-ru-sa-lem

“Ở đó cũng có nhiều phụ nữ đứng xa xa; họ là những người đã theo giúp Chúa Giêsu từ xứ Galilêa. Trong số đó có Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê và Giuse, và mẹ các người con của Giêbêđê”. (Mt 27, 55-56)

Trong thế giới băng giá của tàn ác, của tố cáo, bạo lực, thế giới của những người đang nắm quyền kết án một con người vô tội.

Vẫn còn đó những con người hiền lành, nhân hậu và can đảm dẫu cho họ không thể thay đổi bản án của Chúa Giê-su được, họ là các phụ nữ mà thời đó họ không được lên tiếng ở công trường, không có một quyền hành và quyền lợi nào. Nhưng các bà vẫn dõi bưới theo Chúa, khóc than Chúa.

Bà Vê-rô-ni-ca đang len lõi qua từng đám người hung bạo, bất chấp nguy hiểm bà đã lao tới Chúa để lau mặt cho Chúa như phần nào an ủi Chúa.

Ngày nay vẫn còn đó nhưng người mẹ, những người vợ bị hành hung, bạo lực trong các gia đình, nhưng vẫn kiên vững, chịu đau khổ để bảo vệ hạnh phúc gia đình, để cầu nguyện cho những đứa con ngỗ nghịch, những đứa con yếu đuối bệnh tật, cầu nguyện cho những người chồng rời bỏ gia đình đi tìm niềm vui hạnh phút riêng tư. 


Vẫn còn đó những phụ nữ bị đối xử bức công, bị chà đạp nhân phẩm, những dòng nước mắt của họ vẫn đang chảy và chảy mãi nếu thế lực sự dữ vẫn con trong gia đình và trong thế giới loài người.





3. Khuôn mặt của Simon thành Ky-rê-nê

“Đang đi ra, thì chúng gặp một người Ky-rê-nê, tên là Si-môn ; chúng bắt ông vác thập giá của Người” (Mt 27,32)

có lẽ ông đang trên đường đi về, về gia đình để chuẩn bị cho đại lễ, ông bị buộc vác thập giá cho một con người mà không còn hình dạng, đầy máu me. Người này lại chẳng có mối quan hệ thân thiết gì với ông.

Nhưng ông cũng đã kê vai vác đỡ, phải chăng vì đó là một mệnh lệnh buộc ông phải làm, hay một tí gì của long trắc ẩn xót thương, dầu là với lý do gì đi nữa thì ông cũng chính là mẫu người đáng để tôi suy gẫm.

Có những thập giá trên đường đời ông ai muốn vác, nhưng nó vẫn xảy tới, có những thánh giá của anh chị em ta cần ta kề vác chúng sức để giúp nhau đi trọn chẳng đường. Có những thập giá mà ở đâu đó hay gọi là trên trời rớt xuống đời ta, có muốn từ chối cũng không được. Nhưng tất cả phải có tình yêu và im lặng, ta thấy Simon thành Ky-rê-nê không hề cằn nhằn, đặt điều kiện hay chối từ. Ông im lặng đưa vai vác cùng Chúa. Chúa im lặng, ông cũng im lặng mặc cho quanh ông và Chúa là những lời la ló, những cái nhìn đầy bạo lực.

Vâng im lặng trước mọi đau khổ, thử thách, những gì mà ta không thích, hay ngoài sức ta đó là một sự im lặng thánh. Simon thành Ky-rê-nê một con người đây nhân từ và quãng đại. cám ơn ông đã cho ta một khuôn mặt thật dễ thương.


Có những cuộc đời đã dám chọn nước mắt cho mình để đem lại tiếng cười cho đời.

Có những cuộc đời chấp nhận thay đổi lộ trình mình đang dự tính để chung chia gánh nặng cho người khác.

4. Viên đại đội trưởng Rô-ma

“Thấy động đất và các sự việc xảy ra, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Đức Giê-su đều rất đỗi sợ hãi và nói : “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa.” ( Mt 27,54)

Ông là người chứng kiến ngay từ những giây phút đầu trong cuộc hành hình của Chúa, những bức công, tàn bạo dành cho một con người vô. Ông cũng là người được nghe đầy đủ 7 câu nói cuối cùng của Chúa. Khi Chúa Giê-su trút hơi thở, viên sĩ quan đã tuyên xưng đức tin “Đúng người này là Con Thiên Chúa”

Người dùng đức tin giải quyết đau khổ trong cuộc sống sẽ làm cho đời thêm an bình. Lắng nghe Lời Chúa nói, nhìn thấy sự im lặng của Chúa suốt cuộc khổ nạn có lẽ đã làm cho viên sĩ quan nhiều suy tư về con người Giê-su mà mọi người đang lên án, giết chết. Để rồi từ người không có đức tin ông trở nên xác tin về niềm tin vào con người Giê-su “Đúng người này là Con Thiên Chúa”

5. Những con người dưới chân Thánh Giá.

"Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng : “Thưa Bà, đây là con của Bà.” Rồi Người nói với môn đệ : “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình." ( Ga 19, 26-27)


Hơn bao giờ hết Chúa Giê-su trong giờ phút này được an ủi bởi dưới chân Ngài đang có Mẹ, người môn đệ yêu dấu và một số người phụ nữ đã theo phục vụ Ngài suốt hành trình rao giảng.

Từ ngày Mẹ đón nhận biến cố Truyền tin đến biến cố Chúa Giáng sinh và quãng đời Chúa sống nơi mai nhà Na-gia-ret, chia tay mẹ lên đường theo sứ mệnh của Cha. Bây giờ là giây phút cuối đời của con Mẹ. Có người mẹ nào hạnh phúc khi thấy con bị người đời sỉ nhục, đánh đập, kết án. Có người mẹ nào hạnh phúc khi thấy con tan than nát thịt không. Vâng Mẹ Maria cũng vậy thôi Mẹ là con người mà hơn nữa là tình mầu tử. 

Nhưng Mẹ vẫn chọn hai tiếng: “xin vâng” kèm theo mũi đồng đâm thấy tim Mẹ. Mẹ đã cùng con đi hết hành trình của cuộc đời nơi dương thế, Mẹ đã cùng con Đồng công cứu chuộc thế gian 
Mẹ im lặng để nghe từng la ó của dân chúng, kết án của những người cho mình có quyền trên Giê-su con Mẹ. Mẹ im lặng để nghe tiếng đinh đóng vào thân thể con mình. Mẹ im lặng để nghe tiếng trút hơi thờ cuối cùng của con yêu dấu. Và Mẹ im lặng để ôm xác con trong tay.

Vâng mẹ vẫn mãi im lặng để suy đi nghĩ lại trong lòng, để biến đau thương thành tình yêu, biến hận thù thành tha thứ.

Và Gioan người môn đệ Chúa yêu dấu không bỏ thầy, dẫu sao 12 môn đệ vẫn còn có một người dưới chân Thánh giá, bên Chúa trong giờ sau cùng, còn chút gì hy vọng còn chút gì ủi an cho Chúa.

6. Ông Giuse quê ở Arimathia

“Tới chiều có một người giàu sang quê ở Arimathia tên là Giuse, cũng đã làm môn đệ Chúa Giêsu, ông đi gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Bấy giờ Philatô truyền giao xác cho ông. Vậy ông Giuse lấy xác, liệm trong một khăn sạch, và đặt trong mồ mà ông đã cho đục trong đá, rồi ông lăn một tảng đá lớn lấp cửa mồ lại và ra về” ( Mt 27,57)

Ông không phải là Tông đồ được tuyển chọn của Chúa, ông chỉ là một trong nhưng môn đệ Chúa trong thời gian Chúa rao giảng. Có lẽ ông là người có thế giá nên mới lên gặp Phi-la-tô để xin xác Chúa và Phi-la-tô sẵn sang truyền giao cho ông. Từ đó ông lo liệm Chúa và lo cho Chúa một nơi để an táng. Ông đại diện cho từng lớp giàu có biết quan tâm đến người khác, biết quảng đại chia sẻ mà không cần tính toán.


Lạy Chúa, con cám ơn Chúa trong cuộc thương khó của Chúa vẫn con đó những con người mà hôm nay con khám phá ra họ thật là dễ thương dễ mến. Họ yêu Chúa quá đỗi. Họ đã hành động thật là quả cảm. Con học nơi họ sự im lặng của chiêm ngắm và cầu nguyện, của tình yêu phá tan hận thù. Giờ này, con cũng đang cần một sự thinh lặng, vâng sự thinh lặng để con được bình an. Con sẽ học nơi từng gương mặt mà con suy gẫm để con vượt qua những đau khổ và đắng cay đang làm tổn thương tâm hồn.

Con xin cũng Chúa bước vào Tam Nhật Thánh trong thinh lặng, cầu nguyện. Con xin theo Chúa nhưng những con người dễ thương theo Chúa. Lạy Chúa xin cho con đóng đinh với Ngài, xin cho con cùng vác với Ngài, Thập giá trên đường đời con đi…..